(1906-1941): Ông sinh ở làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, nay là xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1923, tốt nghiệp hạng ưu trường Quốc học Huế. Năm 1929, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1932, ông trở về Việt Nam. Trên đường về ông bị Pháp bắt và bị trục xuất sang Bỉ, sau đó trở về Trung Quốc. Năm 1935, ông được cử làm Bí thư Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1936, Ban Chấp hành Trung ương cử ông giữ chức Tổng Bí thư. Năm 1940 ông bị bắt thực dân Pháp xử tuyên án 5 năm tù giam. Năm 1941, Pháp đổi thành án tử hình vì "chịu trách nhiệm tinh thần về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ". Trước tòa ông tuyên bố: "Tôi chẳng có gì phải hối tiếc. Nếu còn sống tôi sẽ tiếp tục hoạt động".